Nguồn gốc Tô Phở Việt

Nguồn gốc Tô Phở Việt

 KỂ CHUYỆN NGUỒN GỐC TÔ PHỞ VIỆT

Phở Việt – Món ăn quốc dân của Việt Nam ngày nay nổi tiếng khắp thế giới. Tuy nhiên, cho đến nay, nguồn gốc tô phở Việt vẫn nhiều tranh cãi.

  1. Nguồn gốc tô Phở Việt

Nhắc tới ẩm thực Việt Nam, hầu hết khách quốc tế có thể kể đến tên phở, một đặc sản bổ dưỡng, ngon miệng có thể ăn vào bất kỳ thời gian nào trong ngày.

Phở được cho là bắt nguồn từ Nam Định. Từ cuối thế kỷ 19, khi nhu cầu sử dụng thịt bò của người Pháp ở Việt Nam tăng cao, dẫn tới dư thừa xương bò. Xương sau đó được người Việt sử dụng để hoàn thiện hương vị của nước phở.

Có ý kiến lại cho rằng phở ra đời tại Hà Nội, biến tấu từ xáo trâu – một món ăn đơn giản với những lát thịt trâu nấu trong nước dùng với bún gạo – sáng tạo nên một món ăn tinh tế và cân bằng. Thịt trâu dần được thay bằng thịt bò, thêm mì gạo, nêm nếm nước dùng cho đến khi phở Hà Nội ra đời. Đến thập niên 30, những người bán hàng rong gánh phở trở thành hình ảnh quen thuộc trong những con phố cổ Hà Nội.

2. Tên gọi phở “FEU…” – “PHỞ”

Năm 1910, nhiều thanh niên Việt Nam cả miền Bắc lẫn miền Nam đi lính cho Pháp. Họ phải sang mẫu quốc để phục vụ một thời gian, trong số đó có một người từng làm phụ bếp cho Toàn quyền Sài Gòn tên Huỳnh. Đơn vị ông Huỳnh đóng quân ở Marseille và ông được giữ chức bếp trưởng của binh đoàn toàn lính người An Nam.
Sáng nào ông Huỳnh cũng ra lệnh đốt bếp lò thật sớm bằng cách hô to: “Feu! Feu!” có nghĩa là “Nổi lửa lên!” để nấu súp thịt bò cho binh sĩ ăn điểm tâm với bánh mì khô. Thấy binh sĩ người Việt bỏ ăn sáng hơi nhiều, ông Huỳnh bèn nghĩ ra một món mới, hy vọng anh em binh sĩ An Nam sẽ cảm thấy dễ nuốt hơn. Sau khi được các “Sếp Tây” cho phép, ông bèn lấy nước súp bò của Tây… cho hầm chung với quế, hồi, gừng.
Riêng “ánh tài phảnh” mua của người Tàu bán ở Khu Chinois rồi ông Huỳnh nêm thêm nước mắm vào súp cùng với hành, ngò rí, hành tây… cho hợp khẩu vị Việt Nam. Tuyệt vời thay, ở xứ lạ quê người, buổi sáng trời lạnh như cắt da, mà lại được ăn một bát súp nóng hổi ngào ngạt đậm mùi quê hương thay vì ăn bánh mì Tây quá ư nhạt nhẽo! Binh sĩ An Nam ủng hộ Chef Huỳnh hết mình.
Nấu bao nhiêu cũng hết! Các sĩ quan Pháp thấy vậy đòi ăn thử, ai cũng tấm tắc khen ngon rồi thắc mắc: “Tên món này là món gì mà sáng nào Monsieur Huỳnh cũng ra lệnh Feu Feu vậy?” Không chần chừ ông Huỳnh trả lời: Thưa Sếp, tên nó là Phở (Feu) đấy! Phở ra đời năm ấy – năm 1910, được Tây lẫn Ta yêu thích và chết tên “Feu” từ đó. Khi muốn ăn, sĩ quan Tây chỉ cần nói “Feu Feu” là có tô phở bò hầm kiểu An Nam nóng hổi khói bốc nghi ngút theo gió thơm lừng cả doanh trại.
Nhiều binh lính An Nam nhà ở Hà Nội sau khi giải ngũ về đã lấy Phở gánh với tiếng rao: Feu….ớ… làm kế sinh nhai, thực khách là lính Tây và kiều dân Pháp. Dân Hà Nội cũng ăn thử và “mê tít” món “Feu” (Phở) từ dạo đó…! Ở Đà Lạt năm 1930 có phở Gare xe lửa là tiệm Phở Bò đầu tiên do con ông Huỳnh làm chủ. Chữ Tô Xe lửa (Tô lớn) từ đây mà ra….
Phở Gare Dalat sau 1960 dời vế Phú Nhuận (Sài Gòn) lấy tên là Phở Bắc Huỳnh…! Ở Sài Gòn trước năm 1940 có tiệm Phở Turc là tiệm Phở đầu tiên. Chủ tiệm cũng là dân đi lính Tây giải ngũ về, ông này nói tiếng Pháp giỏi nên có nhiều khách Tây đến ăn.
Ngày nay, món Phở đã theo chân người Việt đến khắp nơi trên thế giới và trở thành món ăn “thương hiệu” của Việt Nam. Dù nguồn gốc của món ăn còn gây nhiều tranh cãi nhưng những giai thoại về Phở vẫn rất đáng để tham khảo….!
Ngoài ra, cũng có thể xem Phở là một trong những ví dụ đặc trưng cho khái niệm Bricolage (lai ghép) mà các nhà nghiên cứu văn hóa ẩm thực dùng để chỉ món ăn thiên hướng lai ghép (kết hợp, biến tấu từ nhiều nguồn thức ăn ngoại lai) hơn là tự thân sáng tạo…!
St

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *